-
|
-
-
Giới Thiệu Pháp Thiền Nguyên Thủy của Đức
Phật
Thiền là một pháp môn do sáng
kiến của đức Phật, do kinh nghiệm tu tập bản thân của Ngài, không một
ai dạy cho Ngài, và chính nhờ kinh nghiệm bản thân ấy mới giúp cho
Ngài xây dựng một pháp môn giải thoát và giác ngộ, rất độc đáo, tuyệt
diệu, đó là pháp môn : Giới, Định, Tuệ.
Kinh nghiệm Thiền đầu tiên của
đức Phật là khi Ngài đến học đạo với Alara
Kalama về pháp môn Vô-sở-hữu-xứ, và học đạo với Uddaka Ramaputta về
pháp môn Phi-phi-tưởng-xứ (Phi-tưởng). Hai pháp môn Thiền ngoại đạo,
Ngài học, Ngài hành, Ngài chứng và được hai vị ngoại đạo sư xác nhận
là đã thật chứng.
Nhưng Ngài nhận thấy hai pháp
môn ấy không đem đến giải thoát nên Ngài đã bỏ đi. Ngài suy nghĩ :"Pháp này không hướng đến yếm ly, không hướng đến ly tham, không hướng
đến đoạn diệt, không hướng đến an tịnh, không hướng đến thượng trí,
không hướng đến giác ngộ, không hướng đến Niết-bàn, mà chỉ đưa đến sự
chứng đạt Vô sở hữu xứ. Như vậy, này các Tỳ-kheo, Ta không tôn kính
Pháp này, và từ khước pháp ấy, Ta bỏ đi" (Trung Bộ
Kinh).
Kinh nghiệm thứ
hai là kinh nghiệm của đức Phật khi chưa
thành Đạo, Ngài muốn đoạn trừ các dục, nhưng vì Ngài chưa hành Thiền,
nên chưa đoạn trừ được tham sân si, như đoạn kinh sau đây nêu rõ :"Này
Mahànàma, thuở xưa, khi Ta còn là vị Bồ-tát, chưa chứng được Bồ-đề,
chưa thành Chánh đẳng, Chánh giác, Ta khéo thấy như thật chánh kiến :"Các dục, vị ít, khổ nhiều, não nhiều, sự nguy hiểm ở đây nhiều hơn".
Dầu ta khéo thấy với như thật chánh kiến như vậy, nhưng Ta chưa chứng
được hỷ lạc do ly dục, ly bất thiện pháp sanh, hay một pháp nào khác
cao thượng hơn, và như vậy, Ta biết rằng ta chưa khỏi bị các dục chi
phối. Và này Mahànàma, khi nào Ta khéo thấy với như thật chánh quán :"Các dục, vui ít, khổ nhiều, não nhiều, và sự nguy hiểm ở đây lại
nhiều hơn". Và ta chứng được hỷ lạc do ly dục, ly bất thiện pháp sanh,
hay một pháp nào cao thượng hơn, như vậy ta mới khỏi các dục chi phối
!" (Trung Bộ Kinh)
Kinh nghiệm này nêu rõ, chỉ
một mình như thật quán các dục là vui ít khổ nhiều chưa đủ, phải có
hành Thiền, tức là chứng được hỷ lạc do ly dục sanh mới có thể nhiếp
phục và đoạn trừ các dục. Chính do kinh nghiệm này, đức Phật sau này
đã hành Thiền định để nhiếp phục các dục và đã thiết lập pháp môn Giới
Định Tuệ, trong ấy có Thiền để đưa hành giả đi đến giác ngộ giải
thoát.
Kinh nghiệm thứ ba của Sa-môn
Gotama là khi tu hành sáu năm khổ hạnh đã
xong, Ngài nhận thấy khổ hạnh không đưa con người đến giác ngộ và giải
thoát, nên Ngài đã từ bỏ khổ hạnh và đi đến Uruvela.
Tại đây, Ngài tìm thấy một địa
điểm khả ái, có con sông trong sáng chảy gần, một khóm rừng thoải mái,
một trú xứ thuận tiện để hành Thiền. Ngài chọn lựa địa điểm ấy và
quyết định ngồi xuống tại đấy để tu trì.
Khi đức Phật thành Đạo, nếp
sống đặc biệt của Ngài như đã được diễn ra trong Kinh tạng Pàli là
thuyết pháp độ sanh, và hành Thiền giải thoát. Thật sự ở nơi đây hai
hình ảnh linh động nhất của bậc giáo chủ đạo Phật là thuyết Pháp và
hành Thiền. Trong đời sống hàng ngày của đức Phật, ngoài trách nhiệm
thuyết Pháp độ sanh, đức Phật hoàn toàn sống đời sống hành Thiền. Buổi
sáng đi khất thực, độ ngọ xong, Ngài đi sâu vào rừng núi để hành
Thiền. Buổi chiều, đức Phật thường từ Thiền tịnh độc cư đứng dậy, tức
là buổi chiều Ngài cũng hành Thiền. Ban đêm, trong canh một Ngài đi
kinh hành. Trong canh hai, Ngài đi kinh hành và ngồi Thiền. Canh ba,
Ngài nằm nghỉ với dáng nằm con sư tử. Ngài thức dậy, lại đi kinh hành
và ngồi Thiền. Khi Ngài nhập Niết bàn, Ngài cũng từ nơi cảnh Thiền
định mà nhập Niết bàn.
Một khả năng nữa của Thiền là
đem lại sự hỷ lạc cho người hành Thiền, từ Sơ Thiền với các hỷ lạc do
ly dục sanh, đến nhị Thiền do định sanh, đến Thiền thứ ba không có hỷ
chỉ có xả niệm lạc trú, đến Thiền thứ tư với xả niệm thanh tịnh, mỗi
hỷ lạc tuần tự vi diệu hơn hỷ lạc trước, và các hỷ lạc này không chi
phối tâm của người hành Thiền, trái lại là cho người hành Thiền hiện
tại lạc trú, đúng như danh từ Ditthadhammasukhavihàri được định nghĩa
cho Thiền. Như vậy, Thiền còn đem lại hỷ lạc cho người hành Thiền, và
hỷ lạc có tác động như món ăn được gọi là xúc thực, đem lại sự lạc
quan, nỗ lực, tinh tấn, phấn chấn, nghị lực cho người hành Thiền, chứ
không phải đem lại bệnh hoạn, điên cuồng, loạn tâm, chán đời, tiêu cực
như người ta đã gán một cách sai lạc cho hành Thiền.
Một trong những công năng
tuyệt diệu của Thiền là đưa đến trí tuệ, từ trí tuệ đưa đến giải
thoát, giải thoát tri kiến theo đúng quá trình Giới, Định, Tuệ, Giải
thoát, Giải thoát tri kiến.
Đức Phật dạy cho các Tỳ-kheo
xuất gia :"Này các Tỳ-kheo, khi các người hội họp lại, thường có hai
việc phải làm : một là đàm luận về Phật pháp, hai là giữ im lặng của
một bậc Thánh "(Trung Bộ Kinh). Và sự im lặng của các bậc Thánh ở đây
là hành Thiền !
Lợi Ích Của Việc Tu
Thiền :
Lợi Ích của việc tu
Thiền trước tiên là đem lại sự hỷ lạc cho
người hành Thiền, từ Sơ Thiền với các hỷ lạc do ly dục sanh, đến nhị
Thiền do định sanh, đến Thiền thứ ba không có hỷ chỉ có xả niệm lạc
trú, đến Thiền thứ tư với xả niệm thanh tịnh, mỗi hỷ lạc tuần tự vi
diệu hơn hỷ lạc trước, và các hỷ lạc này không chi phối tâm của người
hành Thiền, trái lại là cho người hành Thiền hiện tại lạc trú, đúng
như danh từ Ditthadhammasukhavihàri được định nghĩa cho Thiền. Như
vậy, Thiền còn đem lại hỷ lạc cho người hành Thiền, và hỷ lạc có tác
động như món ăn được gọi là xúc thực, đem lại sự lạc quan, nỗ lực,
tinh tấn, phấn chấn, nghị lực cho người hành Thiền, chứ không phải đem
lại bệnh hoạn, điên cuồng, loạn tâm, chán đời, tiêu cực như người ta
đã gán một cách sai lạc cho hành Thiền.
Quá trình thứ nhất là từ Thiền
thứ tư, với tâm định tĩnh, thuần tịnh trong sáng, không cấu nhiễm,
không phiền não, nhu nhuyễn, dễ sử dụng, vững chắc bình tĩnh như vậy,
hành giả hướng tâm đến Túc mạng minh, đến Thiên nhãn minh, đến Lậu tận
minh. "Vị ấy biết như thật "Đây là khổ", biết như thật "Đây là khổ
tập", biết như thật "Đây là khổ diệt", biết như thật "Đây là con đường
đưa đến khổ diệt", biết như thật "Đây là các lậu hoặc", biết như thật
"Đây là nguyên nhân các lậu hoặc", biết như thật "Đây là lậu hoặc
diệt", biết như thật "Đây là con đường đưa đến lậu hoặc diệt". Nhờ
hiểu biết như vậy, nhận thức như vậy, tâm của vị ấy thoát khỏi dục
lậu, thoát khỏi hữu lậu, thoát khỏi vô minh lậu. Đối với tự thân đã
giải thoát như vậy, khởi lên sự hiểu biết "Ta đã giải thoát" vị ấy
biết "Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những việc cần làm đã
làm, không còn trở lui trạng thái này nữa". (Kinh Trung
Bộ).
Nhìn một cách tổng quát về
Thiền, chúng ta thấy rõ vị trí quan trọng của Thiền trong quá trình
Giới, Định, Tuệ và như vậy giúp chúng ta đoạn trừ các dục, khiến cho
ác ma không thấy đường; Thiền giúp chúng ta đoạn trừ các sợ hãi; Thiền
đem đến cho chúng ta hỷ và lạc, thoải mái về tâm, thoải mái về thân,
Thiền đem đến sức khoẻ cho thân và cho tâm, và cuối cùng Thiền định
đưa đến trí tuệ, tâm giải thoát và tuệ giải thoát.
Qua những định nghĩa trên,
chúng ta thấy Thiền định là một pháp môn có những định nghĩa, những
hành tướng đặc biệt và đa dạng. Trước hết, Thiền định là một sự hòa
hợp giữa nhân lực và sức mạnh thiên nhiên, một sự hòa hợp nhờ vị trí
ngồi Thiền, thời gian ngồi Thiền, khung cảnh ngồi Thiền. Thiền định
lại còn một khả năng quyết trạch về thiện, hướng thiện, và cứu cánh là
thiện. Hơn nữa Thiền có thể được xem là một sự giáo dục về cảm thọ,
nuôi dưỡng các cảm thọ tốt đẹp như hỷ, lạc, xả và từ bỏ các cảm thọ
không tốt đẹp, như khổ, ưu. Thiền định là một sự giáo dục tâm lý, đoạn
tận các tâm lý không tốt đẹp như năm triền cái, tham sân si, và thay
thế bởi những tâm lý tốt đẹp là năm Thiền chi là không tham, không
sân, không si. Nói tóm lại, Thiền định là một giai đoạn tiếp theo giới
và bước vào tuệ tức là Thiền quán.
Phương Pháp Hành Thiền
:
Phương pháp hành
Thiền đơn giản nhất là niệm hơi thở vô hơi
thở ra, được diễn tả trong kinh "Một pháp" trong bộ Samyutta Nikaya
(Kinh Bộ Tương Ưng) như sau :
"Có một pháp, này các Tỳ kheo, được tu
tập, được làm cho sung mãn, có quả lớn, có lợi ích lớn. Thế nào là
một pháp ? Niệm hơi thở vô, hơi thở ra. Và này các Tỳ kheo, niệm hơi
thở vô hơi thở ra, tu tập thế nào, làm cho sung mãn thế nào, có quả
lớn, có lợi ích lớn ?".
"Ở đây, này các Tỳ kheo, Tỳ kheo đi đến
rừng hay đi đến gốc cây, hay đi đến chỗ nhà trống, và ngồi kiết già,
lưng thẳng. Đặt niệm trước mặt, vị ấy chánh niệm thở vô, chánh niệm
thở ra".
"Thở vô dài, vị ấy rõ biết
:"Tôi thở vô
dài". Thở ra dài, vị ấy rõ biết :"Tôi thở ra dài". Thở vô ngắn, vị
ấy rõ biết :"Tôi thở vô ngắn". Thở ra ngắn, vị ấy biết biết :"Tôi
thở ra ngắn".
"Cảm giác toàn thân tôi sẽ thở vô", vị ấy
tập. "Cảm giác toàn thân tôi thở ra", vị ấy tập. "An tịnh thân hành
tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "An tịnh thân hành tôi sẽ thở ra", vị ấy
tập".
"Cảm giác hỷ thọ, tôi sẽ thở vô", vị ấy
tập. "Cảm giác hỷ thọ, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "Cảm giác lạc thọ,
tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Cảm giác lạc thọ, tôi sẽ thở ra", vị
ấy tập".
"Cảm giác tâm hành, tôi sẽ thở vô", vị ấy
tập. "Cảm giác tâm hành, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "An tịnh tâm
hành, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "An tịnh tâm hành, tôi sẽ thở ra",
vị ấy tập. "Cảm giác về tâm, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập, "Cảm giác về
tâm, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập".
"Với tâm hân hoan, tôi sẽ thở vô", vị ấy
tập. "Với tâm hân hoan, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "Với tâm định
tĩnh, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Với tâm định tĩnh, tôi sẽ thở ra",
vị ấy tập. "Với tâm giải thoát, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Với tâm
giải thoát, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập".
"Quán vô thường, tôi sẽ thở vô", vị ấy
tập. "Quán vô thường, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "Quán ly tham, tôi
sẽ thở vô", vị ấy tập. "Quán ly tham, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập.
"Quán đoạn diệt, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Quán đoạn diệt, tôi sẽ
thở ra", vị ấy tập. "Quán từ bỏ, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Quán từ
bỏ tôi sẽ thở ra", vị ấy tập".
"Tu tập như vậy, nầy các Tỳ-kheo, làm cho
sung mãn, như vậy, niệm hơi thở vô, hơi thở ra có quả lớn, có lợi
ích lớn".
Nếu chúng ta áp dụng Pháp môn
niệm hơi thở vô hơi thở ra ngay trong đời sống hiện tại, áp dụng một
cách giản dị và kiên trì, có thể 15 phút, nửa giờ hay 1 giờ hàng ngày,
trong các buổi sớm hay buổi tối, thời dần dần chúng ta sẽ thâu nhận
được kết quả thiết thực của pháp môn này. Đối với những vị chú trọng
về dưỡng sinh, niệm hơi thở vô hơi thở ra đem lại cho quý vị sức khỏe
thân tâm cần thiết và tiến gần đến "Vô bệnh, lợi tối thượng" (Arogyà
paramàlabhà).
Đối với những vị muốn hòa hợp
sức mạnh nội tâm với sức mạnh thiên nhiên, ngồi Thiền giữa trời, trong
cảnh thanh vắng tịch mịch của ban đêm hay trong rừng sâu cô tịch, sẽ
đưa lại cho chúng ta nhiều cảm giác kỳ diệu. Đối với những ai muốn
giáo dục cảm thọ, nuôi dưỡng các cảm thọ lành mạnh, đối trị với khổ
ưu, nuôi dưỡng hỷ lạc, niệm hơi thở vô hơi thở ra có thể giúp họ hiện
tại lạc trú và nhìn đời với cặp mắt lạc quan. Đối với những vị muốn đi
sâu vào vấn đề tâm lý, giáo dục, nuôi dưỡng cho mình các sức mạnh
Niệm, Định, Tuệ; Pháp môn Thiền về hơi thở này giúp họ đạt được cứu
cánh của Phạm hạnh chứng được tâm giải thoát, tuệ giải
thoát.
Chúng ta hãy cố gắng làm sống
dậy ý nghĩa lành mạnh của hành Thiền nguyên thủy, áp dụng pháp môn
niệm hơi thở vô hơi thở ra trong đời sống hằng ngày của chúng ta và
như vậy chúng ta vừa báo đáp ân đức thuyết pháp độ sanh của đức Phật
và tự mình được san xẻ những kinh nghiệm về Thiền của đức Phật. Có vậy
chúng ta mới đánh giá đúng đắn phương pháp hành Thiền của đức Phật và
được hưởng thọ những ảnh hưởng tốt đẹp của Pháp môn hành
Thiền.
********************************************************
- Giới Thiệu Đường Lối Tu Thiền của Phật
Giáo
A- Dẫn
nhập
Tu thiền là thực hiện theo nguồn
gốc của đạo Phật. Vì xưa kia, Đức Phật tọa thiền suốt bốn mươi chín ngày
đêm dưới cội bồ đề mới được giác ngộ thành Phật. Chúng ta là Tăng Ni,
Phật tử học giáo lý của Phật thì phải đi theo con đường mà Phật đã đi,
không đi con đường nào khác, dù đường ấy người thuyết giảng nói linh
thiêng mầu nhiệm, chúng ta cũng không theo. Chúng ta cần phải giảng
trạch pháp thiền nào không phải của Phật dạy và pháp thiền nào của Phật
dạy, để có cái nhìn chính xác, để tu và đạt được kết quả tốt đúng với
giáo lý mà mình đã tôn thờ.
- B- Nội dung
-
-
A. Thiền không phải của đạo Phật
1- Thiền chuyển luân
xa : Thiền này hành giả dẫn điện từ rốn ra sau
lưng, lên đầu xuống rốn, từ rốn ra sau lưng, lên đầu xuống rốn, dẫn điện
chạy vòng vòng như vậy là chuyển luân xa.
2- Thiền xuất hồn : Hành giả mở các khiếu huyệt trên thân rồi xuất hồn bay đi
học đạo với các bậc thầy chưa từng biết, sau đó tự thực hành. Thiền này
có hai cái hại : Cái hại thứ nhất là khi mở huyệt đạo để xuất hồn, có
người mở không khéo phát điên. Cái hại thứ hai là xuất hồn bay đi học
đạo, ai nói là minh sư liền theo, không giảng trạch chánh tà nên dễ bị
thần linh đánh lừa.
3- Thiền thai tức : Hành giả thở vô, giữ hơi tại đan điền một lúc rồi mới thở
ra, lâu ngày bụng dưới lớn dần như người nữ có thai, nên gọi là thiền
thai tức.
4- Thiền luyện tinh hóa khí, luyện
khí hóa thần : Hành giả luyện tinh hóa thành
khí, luyện khí hóa thành thần. Đây là lối tu tiên, đưa người đạt được
thần thông du hí khắp mọi nơi.
5- Thiền Yoga hay Du
già : Thiền này có nhiều cách tu, trọng tâm
thiền này luyện cho cơ thể khỏe mạnh hơn là giải thoát.
Năm loại thiền kể trên thuộc
thiền ngoại đạo, không phải thiền của đạo Phật.
B. Thiền của đạo Phật
Thiền của đạo Phật trọng tâm
phát huy trí tuệ, phá si mê chấp ngã chấp pháp, để giải thoát sanh tử
luân hồi đau khổ. Tạm chia ra : Thiền nguyên thủy, Thiền Đại thừa phát
triển, Thiền tông.
I. Thiền
Nguyên Thủy
Thiền nguyên thủy được truyền bá ở
các nước : Tích Lan, Miến Điện, Thái Lan, Lào, Campuchia ... Thiền nguyên
thủy có rất nhiều pháp, ở đây chỉ nêu lên những pháp thường
dùng.
1- Tứ niệm
xứ
* Quán thân bất tịnh
: Là thấy đúng như thật về thân. Quán xét
thân mình từ đầu tới chân toàn là một đãy da bao bọc não, tủy, thịt,
gân, xương, máu, mủ... Những món này còn nằm trong đãy da thì dễ coi một
chút, nếu nó ra khỏi đãy da thì rất nhơ nhớp. Phần đầu là quý nhất, thế
mà những chất tiết ra từ mắt là ghèn, từ tai là cức ráy, từ mũi là nước
mũi, từ miệng là đờm dãi đều tanh hôi nhơ nhớp, ai thấy cũng gớm ghê.
Thân mình và tay chân cũng như thế; chỗ nào trong thân bài tiết ra cũng
đều tanh hôi nhơ nhớp, không có cái nào là sạch, là quý cả. Nếu bên
trong thân sạch sẽ thì khi tiết ra có mùi thơm. Nhưng vì quá dơ bẩn nên
tiết ra có mùi tanh hôi nhơ nhớp mà lúc nào chúng ta cũng ảo tưởng thân
mình là đẹp, là sạch, là quý ... Do si mê thấy thân lầm lẫn như thế, nên
tự cao ngã mạn phát sanh bao nhiêu thứ phiền não. Do đó, Phật dạy chúng
ta phải thấy đúng như thật về thân, để phá cái nhân si mê chấp ngã, dứt
mầm luân hồi sanh tử.
* Quán thọ là khổ : Thọ là những cảm giác mà mình lãnh thọ. Mắt thấy hình sắc
đẹp tâm ưa thích là cảm thọ lạc, thấy hình sắc xấu tâm chán ghét là cảm
thọ khổ. Tai nghe âm thanh nhẹ nhàng trầm bổng vừa ý là cảm thọ lạc,
nghe âm thanh nặng nề chát tai tâm bực bội là cảm thọ khổ. Mũi, lưỡi,
thân, ý cũng như thế. Mắt thấy sắc không xấu không đẹp, tai nghe tiếng
không hay không dở ... tâm không ưa không ghét là cảm thọ không khổ không
lạc. Thọ khổ thì thấy khổ quá rõ, còn thọ lạc tại sao lại khổ ? Ví dụ
lưỡi nếm thức ăn ngon là thọ lạc, nhưng thọ lạc chỉ trong phút chốc,
thức ăn qua khỏi cổ là hết, hết rồi nhưng còn muốn nữa nên khổ. Cảm thọ
không khổ không lạc cũng thế, có rồi mất, nó vô thường nên
khổ.
Con người có hai cái chấp nặng
nhất là chấp thân thật và chấp cảm giác của thân là quý, cho nên mắt đòi
sắc đẹp, tai đòi âm thanh hay, mũi đòi hương thơm ... Hết đòi cái này tới
đòi cái kia, không có ngày dừng. Vì không thấy thọ đúng như thật, nên
say đắm theo những cái ưa thích tạm bợ vô thường nên khổ. Phật dạy chúng
ta biết đúng như thật những cảm thọ là vô thường, là khổ, để không đua
đòi thụ hưởng thì không bị lệ thuộc với ngoại trần, được tự do giải
thoát hết khổ.
* Quán tâm vô thường
: Tâm người lúc nghĩ tốt lúc nghĩ xấu, lúc
nghĩ chuyện mình lúc nghĩ chuyện người, nghĩ hết chuyện này tới chuyện
khác, không phút giây dừng nghỉ. Tâm nghĩ suy chợt khởi chợt diệt, không
nhất định, luôn luôn chuyển biến vô thường. Thế mà ai cũng cho là
thường, là cố định, là chân lý, người nào nghĩ khác, làm khác ý nghĩ
mình là nổi giận. Vì chấp những nghĩ suy là thường, là chân lý nên cãi
vã, đấu tranh, sát hại, gây đau khổ cho nhau. Do đó, Phật dạy quán tâm
nghĩ suy chợt khởi chợt diệt là vô thường không thật, để không lầm chấp
nó là thường là thật, mới phá được kiến chấp mình đúng, kẻ khác
sai.
* Quán pháp vô ngã :
Có hai cách quán :
a)- Pháp chỉ cho những niệm
buồn, thương, giận, ghét ... Những niệm này không có chủ thể, không cố
định; khi thì buồn lúc thì vui, khi thì thương lúc thì ghét ... làm cho
con người rối rắm bất an. Phật dạy quán những pháp này là tướng không cố
định, không có thật, để phá niệm chấp ngã về tâm.
b)- Pháp còn chỉ cho tất cả sự
vật như bàn, ghế, nhà cửa, ruộng vườn ... Với mắt người phàm tục thì thấy
cái bàn thật, cái ghế thật ... Nhưng với mắt người trí tuệ thì thấy cái
bàn cái ghế không thật mà do các duyên như gỗ, đinh, công thợ ... hợp lại
tạm có, có một thời gian rồi hoại diệt, nên nói là vô ngã, không có chủ
thể. Thân người cũng là một pháp, cũng do đất nước gió lửa hợp lại tạm
có, có rồi hoại diệt.
Phật dạy quán các pháp đúng như
thật của nó là vô ngã để phá chấp thân là thật, chấp tâm là thật, chấp
cảnh là thật. Khi thấy thân, tâm, cảnh không thật thì hết mê muội, hết
luyến ái, hết chạy theo người, chạy theo cảnh.
2- Minh sát
tuệ
Hành giả dùng trí tuệ thấy rõ và
theo dõi từng cử động nơi thân, hoặc những ý nghĩ khởi lên nơi tâm. Ví
dụ hơi thở vô bụng phồng lên, hành giả biết và chú ý niệm thầm "phồng
à". Khi thở ra bụng xẹp xuống, hành giả biết và chú ý niệm "xẹp à". Hoặc
tâm khởi tưởng điều gì phải biết ngay tâm đang tưởng tượng và niệm
(thầm) liền "tưởng tượng à, tưởng tượng à"... Đó là thiền Minh sát
tuệ.
Người theo Phật giáo Nguyên thủy
tu thiền, hoặc quán Tứ niệm xứ, hoặc ứng dụng Minh sát tuệ, hoặc quán
Ngũ đình tâm. Đó là những pháp thiền người tu theo Phật giáo Nguyên thủy
thường dùng.
II. Thiền
Phật giáo Đại thừa hay Phật giáo Phát
triển
Thiền Phật giáo Đại thừa hay
Phật giáo Phát triển được truyền bá ở Trung Hoa. Đại sư Trí Khải dạy tu
thiền theo Lục diệu pháp môn gốc từ Phật giáo Nguyên thủy, nhờ ứng dụng
khéo thành pháp tu của Đại thừa.
1- Lục diệu
pháp môn
+ Sổ tức : Hành giả điều hòa hơi thở không mạnh, không gấp, yên ổn,
thong thả ... hít vô thở ra đếm từ một tới mười, nhiếp tâm tại số, không
cho dong ruổi gọi là sổ tức. Tâm hành giả vận chuyển tự nhiên theo hơi
thở với số không cần gia công, biết hơi thở rỗng nhẹ, tưởng tâm lần lần
tế nhị. Khi không muốn đếm thì bỏ sổ tức tu tùy tức.
+ Tùy tức : Xả pháp sổ tức, tâm
nương theo hơi thở ra vào, hơi thở vào thì theo vào, hơi thở ra thì theo
ra, dứt hết các duyên, ý không phân tán. Biết hơi thở ra vô là thô, muốn
bỏ, khi ấy xả tùy tức tu chỉ.
+ Chỉ : Dứt các duyên lự, không nhớ đếm hơi thở hay theo hơi thở,
tâm ngưng lặng gọi là tu chỉ. Biết thân tâm đứng lặng vào định, không
thấy tướng mạo trong ngoài, hành giả khởi nghĩ định này tuy vô vi tịch
tịnh, an ổn, khoái lạc, nhưng không có trí tuệ, không thể phá hoại nhân
sanh tử. Khởi nghĩ như thế, không đắm nơi chỉ mà khởi
quán.
+ Quán : Tâm ở trong định dùng
tuệ quán tưởng hơi thở ra vào vi tế như gió trong hư không, ba mươi sáu
vật trong thân không thật, như bẹ chuối; tâm thức vô thường sanh diệt,
từng sát na không có ta và người, người đã không có thì định nương vào
đâu ? Quán như thế, biết hơi thở ra vào khắp các lỗ chân lông, tâm sáng,
thấy trong thân ngoài thân đều bất tịnh, biến đổi từng sát na, tâm quán
lưu động, không phải đạo chân thật. Khi ấy xả quán tu
hoàn.
+ Hoàn : Đã biết quán từ tâm sanh
hoặc từ phân tích cảnh sanh đều không hợp bản nguyên, phải phản quán,
quán lại tâm năng quán, quán tâm này từ đâu sanh, gọi là tu
hoàn.
+ Tịnh : Bấy giờ tâm đã thanh
tịnh, không còn nương theo hơi thở, không còn quán. Đó là
tịnh.
2- Tam
quán
Đại sư Trí Khải còn dạy tu theo
Tam quán là quán không, quán giả và quán trung. Hành giả quán tất cả
pháp trên thế gian này do nhân duyên hợp mà tạm có hình tướng, tạm có
tên gọi, không có thật thể, nên nói là không. Tuy là không nhưng duyên
hợp thì nó giả có. Vì giả có nên quán giả. Nếu thấy được nghĩa không giả
hòa hợp là quán trung.
III. Thiền
Tông
Sau đây là pháp tu của Thiền
tông. Tổ Bồ Đề Đạt Ma từ Ấn Độ sang Trung Hoa, Ngài ở chùa Thiếu Lâm,
ngồi xoay mặt vào vách không tiếp người gần chín năm. Hôm ấy vào tiết
mùa Đông có Thần Quang là một thiền khách đến yết kiến, thấy Tổ ngồi
xoay mặt vào vách, đứng chắp tay chờ mãi, tuyết rơi lên tới gối. Tổ quay
lại thấy, hỏi :
- Ngươi đến đây cầu cái gì mà
chịu khổ hạnh như vậy ?
Thần Quang thưa :
- Cúi mong Hòa thượng từ bi mở
cửa cam lồ rộng độ chúng con.
- Diệu đạo vô thượng của chư
Phật dù nhiều kiếp tinh tấn, hay làm việc khó làm, hay nhẫn được việc
khó nhẫn, còn không thể đến thay, huống là dùng chút công lao nhỏ này mà
cầu được pháp chân thừa sao ?
Thần Quang nghe dạy
thế bèn lén lấy
dao chặt cánh tay đặt trước Tổ tỏ lòng thiết tha cầu đạo. Tổ biết đây là
pháp khí bèn dạy :
- Chư Phật lúc ban đầu cầu đạo,
vì pháp quên thân, nay ngươi chặt cánh tay để trước ta, tâm cầu đạo như
vậy cũng khá.
Qua câu chuyện, chúng ta thấy
Phật pháp cao siêu tuyệt vời đưa tới giải thoát sanh tử. Người tu đạo
phải quyết tâm gan dạ xem thường thân mạng mới có thể đạt được, còn tu
lai rai cầm chừng thì không thể tiến được.
Sau đó, Thần Quang
thưa :
- Pháp ấn của chư Phật, con có
thể được nghe chăng ?
- Pháp ấn của chư Phật không
phải từ người khác mà được.
- Tâm con chưa an, xin thầy dạy
pháp an tâm.
- Ngươi đem tâm ra đây ta an
cho.
Thần Quang nhìn lại tâm mình,
tìm mãi không thấy ở đâu, bèn thưa :
- Bạch Hòa thượng, con tìm tâm
không được.
- Ta đã an tâm cho ngươi
rồi.
Ngay đó Thần Quang lãnh hội,
biết pháp an tâm, Tổ đặt tên là Huệ Khả.
Từ lâu, ai cũng như ai đều cho
cái nghĩ suy là tâm mình, nên hết nghĩ việc này, tới nghĩ việc kia, tâm
lúc nào cũng loạn động bất an. Tổ bảo đem tâm ra ta an cho là bảo xoay
lại tìm cái nghĩ suy lăng xăng đó ở đâu ? - Khi xoay lại tìm thì nó lặng
mất. Ý nghĩ lăng xăng mất ngay để tâm an. Vậy, xoay lại tìm ý nghĩ lăng
xăng, thì ý nghĩ lăng xăng lặng, đó là phương pháp tu để được an tâm, để
được định. Đây là phản quang tự kỷ, xoay lại soi sáng tâm mình, Tổ dạy
tu một cách đơn giản, rõ ràng và thực tế, không phải chuyện xa vời không
thực hiện được.
Về sau, Tổ Huệ Khả cũng dạy cho
ngài Tăng Xán như thế. Một hôm có một cư sĩ đến đảnh lễ Tổ,
thưa :
- Đệ tử mang bệnh ghẻ lở đầy
mình, xin thầy từ bi vì đệ tử sám tội.
Tổ bảo :
- Đem tội ra, ta sẽ vì ngươi sám
hối.
Cư sĩ đứng sững giây lâu,
thưa :
- Đệ tử tìm tội không
được.
- Ta vì ngươi sám hối
rồi.
Sám hối cũng là lối phản quang
tự kỷ. Ở trước thì phản quang tìm tâm (vọng tưởng), bây giờ thì phản
quang tìm tội.
Về sau nữa, Tổ Tăng Xán cũng dạy
cho Sa di Đạo Tín như thế. Sa di Đạo Tín đến đảnh lễ Tổ,
thưa :
- Xin Hòa thượng từ bi ban cho
con pháp môn giải thoát.
Tổ hỏi :
- Ai trói buộc ngươi
?
- Không ai trói
buộc.
- Không ai trói buộc đâu cần cầu giải thoát ?
Đạo Tín nghe liền đại
ngộ.
Các Ngài ngộ đạo đều xoay lại
mình tìm coi vọng niệm có thật không, nghiệp tội có thật không, sự trói
buộc có thật không ? Thấy tất cả đều là ảo tưởng không có thật. Thấy nó
không thật là ngộ được lý Thiền. Đó là lối phản quang tự
kỷ.
Từ đời Tống trở về trước, Thiền
tông chưa có pháp tu khán thoại đầu. Từ đời Tống trở về sau, các Thiền
sư Trung Hoa trong tông Lâm Tế thấy đa số Tăng Ni đều thông hiểu lý
Thiền, nhưng không chịu tu mà chỉ nói suông, nên các Ngài dạy khán thoại
đầu không cho tìm hiểu nghĩa lý để nói suông nữa.
Khán thoại đầu là pháp tu mà
hành giả dồn hết tâm lực khán câu thoại đầu do vị thầy hướng dẫn đưa ra
cho tới khi ngộ. Trong thời gian này không học kinh luận, ngoại trừ
những buổi khai thị của vị thầy. Hiện giờ, đa số Tăng Ni và Phật tử chưa
thấu suốt lý Thiền, nên không hướng dẫn khán thoại đầu mà phải giảng dạy
cho hiểu lý Thiền, hiểu rồi mới biết đường lối tu. Đó là tùy thời tùy
cảnh mà dùng phương tiện cho hợp với căn cơ của người đương thời để tu
cho có kết quả tốt.
C- Kết
luận
Tu thiền là một pháp tu thực tế
phù hợp với tinh thần khoa học hiện đại. Tâm chúng ta khởi vọng tưởng
phiền não, chúng ta khéo quán thì vọng tưởng lặng, hết phiền não, tâm an
định. Tu tới đâu có kết quả lợi ích tới đó, rất cụ thể, không xa vời.
Vọng tưởng phiền não là cái không thật hư ảo, nơi mình sẵn có Phật tánh
là cái chân thật bị vọng tưởng phiền não che khuất, bây giờ bỏ hết vọng
tưởng thì Phật tánh hiện ra. Đó là những vấn đề chủ yếu của việc tu
thiền.
********************************************************
Thiền Tông và Thiền Nguyên
Thủy
Tất cả chúng ta đều đồng ý là,
pháp tu của Ðạo Phật, dù phương tiện có thể khác song cứu cánh phải gặp
nhau. Nếu hai pháp tu mà phương tiện và cứu cánh đều khác biệt nhau thì,
pháp nầy là Ðạo Phật, pháp kia hẳn không phải Ðạo Phật. Phật giáo Việt
Nam đã mang sẵn hai pháp tu Thiền : Thiền Tông và Thiền Nguyên Thủy. Vậy
sự gặp gỡ nhau như thế nào ? Ðây là mục tiêu chúng ta phải nghiên cứu.
Theo thiển kiến chúng tôi thấy có những điểm gặp nhau, như dưới
đây :
A. Chủ Ðích Ban Ðầu
Gặp Nhau
Thiền Tông va Thiền Nguyên Thủy
đều thừa nhận đức Phật Thích Ca là Giáo Chủ, đồng kính thờ Ngài. Ðậm nét
nhất là mục đích xuất gia khi Ngài còn làm Thái Tử. Sau khi dạo bốn cửa
thành, hình ảnh sanh già bệnh chết đã đập mạnh vào mắt Ngài, đã in sâu
vào tâm não Ngài, sự bất lực của con người với luật vô thường, khiến
Ngài phải băn khoăn thắc mắc. Ngài cương quyết tìm phương pháp giải
thoát sanh già bệnh chết. Ðây là vấn đề không tiền khoáng hậu, mà Ngài
tự đặt ra cho mình. Từ đây,"phương pháp giải thoát sanh già bệnh chết"
là vấn đề bức xúc nhất, thúc bách Ngài phải tìm phương giải quyết. Chính
là động cơ chủ yếu thôi thúc Ngài vượt thành xuất gia. Sau khi xuất gia,
Ngài gặp các Ðạo Sĩ dạy tu Thiền định, cho đến cái định cuối cùng là Phi
tưởng phi phi tưởng, song vẫn chưa giải quyết hoài bão Ngài cưu mang từ
buổi ban đầu. Ngài từ giã họ, rồi bao nhiêu năm dò dẫm săn tìm, đến phút
giây quyết định là đêm thứ 49, Ngài ngồi dưới cội Bồ Ðề được giác ngộ
viên mãn. Ðến đây, Ngài đã thấy tường tận manh mối trói buộc lôi kéo
chúng sanh vào đường sanh tử và biết rành rẽ phương pháp diệt trừ cắt
đứt mọi mối dây trói buộc giải thoát sanh tử. Bài pháp Tứ Ðế Ngài giảng
đầu tiên tại vườn Lộc Uyển đủ minh chứng điều này. Thế là Ngài giải
quyết xong vấn đề ôm ấp từ thuở ban sơ, tuyên bố thành
Phật.
Thiền Tông nhắm thẳng mục đích
ấy, thực hiện theo sở hành của Phật mà không hoàn toàn theo lời dạy của
Phật. Lấy phương châm "Giải thoát sanh tử" làm kim chỉ nam. Ðặt vấn đề
"Làm sao giải thoát sanh tử ?" làm công án, trăn trở thao thức nghiền
ngẫm mãi vấn đề này, đến bao giờ vỡ tung mới thôi. Phải đạt đến cứu cánh
thành Phật là mục tiêu cuối cùng. Vì thế, Tổ Bồ Ðề Ðạt Ma (Bodhidharma)
dõng dạc tuyên bố :"Giáo ngoại biệt truyền, bất lập văn tự, trực chỉ
nhân tâm, kiến tánh thành Phật". Lấy "Giải thoát sanh tử" làm chủ đề,
đặt nghi vấn làm phương tiện tu, do dùi mài hun đúc mãi vấn đề này,
khiến mọi tâm niệm lăng xăng tự phải dừng lại, đến khi thuần thục chín
muồi vấn đề nổ tung là giác ngộ "giải thoát sanh tử". Chỗ này rất thích
hợp với các nhà khoa học xưa nay, bởi nghi vấn nên tìm tòi nghiên cứu
đến lúc chín muồi liền phát minh. Có khi vấn đề đặt ra chìm ngầm trong
tiềm thức, như mạch nước chảy ngầm dưới đất, nhờ công phu thiền định đến
mức tột cùng, bỗng dưng phát sáng, thấy rõ vấn đề mình ôm ấp từ trước,
như nhờ đào sâu xoi thủng trúng mạch thì dòng nước vọt lên. Chính đây là
hướng thực hành của Thái Tử Tất Ðạt Ða thuở xưa.
Thiền Nguyên Thủy cũng nhằm mục
đích giải thoát sanh tử. Phương tiện tiến tu dồn hết tư tưởng vào một đề
mục, đi sâu mãi cho đến chứng sơ thiền, nhị thiền, tam thiền, tứ thiền,
bước sang tam-minh, cuối cùng giác ngộ "giải thoát sanh tử", cụ thể bằng
thấy rõ Tứ Ðế. Như đoạn kinh Phật dạy :
"Với tâm định tĩnh, thuần
tịnh, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững
chắc, bình thản như vậy, vị ấy dẫn tâm, hướng tâm đến lậu tận trí. Vị
ấy biết như thật :"Ðây là khổ", biết như thật :"Ðây là nguyên nhân của
khổ", biết như thật :"Ðây là sự diệt khổ", biết như thật :"Ðây là con
đường đưa đến diệt khổ", biết như thật :"Ðây là những lậu hoặc", biết
như thật:"Ðây là nguyên nhân của lậu hoặc ", biết như thật :"Ðây là
đoạn trừ các lậu hoặc", biết như thật :"Ðây là con đường đưa đến sự
diệt trừ các lậu hoặc". Nhờ hiểu biết như vậy, nhận thức như vậy, tâm
của vị ấy thoát khỏi dục lậu, thoát khỏi hữu lậu, thoát khỏi vô minh
lậu. Ðối với tự thân đã giải thoát như vậy, khởi lên sự hiểu biết :"Ta đã giải thoát". Vị ấy biết :"Sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, những
việc cần làm đã làm; sau đời hiện tại không có đời sống nào khác nữa"
(Trung bộ I., 278-279)
B. Giới Ðịnh Tuệ
Gặp Nhau
Thiền Tông đặt giới luật lên
trên, cụ thể là Lục Tổ Huệ Năng ngộ đạo rồi vẫn thọ giới, sau mới hoằng
hóa.
Thiền Tông ứng dụng theo hai lối
tu :
1) Ðặt nghi vấn để theo
dõi.
2) Nhìn lại mình, không theo vọng
tưởng.
Ðặt nghi vấn để theo dõi
là khán Công Án hay Thoại Ðầu. Khi theo dõi
công án, mọi niệm lự dễ dừng lặng. Như khi ta đang thắc mắc về một vấn
đề quan trọng thì mọi suy nghĩ khác đều tan. Dồn hết tâm tư trong một
công án thì đối với dục lạc thế gian ta sẽ lơ là, giới luật đã nằm sẵn ở
đây. Giống như nhiều nhà khoa học khi mải mê nghiên cứu một đề tài gì có
lúc quên cả vợ con, ăn uống. Khi vấn đề đã thành khối thì ý thức chết
lịm trong ấy, đấy là Ðịnh. Ðến lúc chín muồi gặp duyên khối nghi tan vỡ,
là thấu suốt được vấn đề mình bao năm theo dõi, gọi là ngộ đạo. Tức là
giác ngộ mục đích mình tìm kiếm, đây là Huệ. Hầu hết những vấn đề đặt ra
đều tối quan trọng như: Thế nào là Phật ? Thế nào là Ðại ý Phật Pháp ?
Thế nào là Kiến tánh thành Phật ? Thế nào là ý Tổ Sư từ Tây sang
?
Nhìn lại mình "Không theo vọng
tưởng" gọi là "Phản quan tự kỷ", cũng gọi
"Hồi quan phản chiếu", dùng trí quán sát tâm tư của mình. Mọi người đều
nhận ý nghĩ lăng xăng là tâm mình, chạy theo nó tạo nghiệp không cùng. Ở
đây hành giả trong mọi oai nghi tỉnh táo quan sát tâm niệm mình, "Thấy
nó không theo", hoặc tìm xem nó phát xuất từ chỗ nào ? Không theo thì nó
lặng, tìm lại thì nó mất. Vận dụng trí tuệ quan sát thường xuyên khiến
vọng tưởng không có cơ hội dong chạy, là giữ Giới. Vọng tưởng cùng đường
không lối thoát, buộc chúng phải lặng yên là Ðịnh. Vọng tưởng đã sạch,
trí tuệ hiện tiền là Huệ. Chỗ này Thiền Sư Hoài Hải (724-814) nói :"Tâm
địa nhược không, huệ nhật tự chiếu". Ðất tâm nếu không, mặt trời trí tuệ
tự sáng. Lối tu này xuất phát từ Tổ Ðạt Ma chỉ dạy Ngài Huệ Khả. Huệ Khả
hỏi :"Tâm con không an, xin thầy dạy pháp an tâm". Tổ Ðạt Ma bảo :"Ðem
tâm ta an cho". Huệ Khả sửng sốt tìm tâm không được, thưa :"Con tìm tâm
không được". Tổ Ðạt Ma bảo :"Ta an tâm cho ngươi rồi". Ngay đây Ngài Huệ
Khả biết được lối vào. (Sử 33 vị Tổ, tr. 163)
Thiền Sư Ðức Sơn (780-865) dạy
chúng :"Các ông chớ cuồng, khuyên các ông không gì hơn Thôi Hết đi, Vô Sự đi. Tâm vừa khởi một niệm tức là quyến thuộc nhà
ma, là kẻ tục phá giới" (Trung Hoa Chư Thiền Ðức II, 138). Cụ thể hóa
lối tu này bằng hình ảnh "Mười Mục Chăn Trâu Thiền Tông" (Thập Mục Ngưu
Ðồ Thiền Tông).
Thiền Nguyên Thủy lấy Giới,
Ðịnh, Huệ làm căn bản. Thiếu giới thì không định, không định thì chẳng
phát huệ. Chúng ta đọc đoạn này trong kinh Sa Môn Quả (Trường Bộ I,
71) :
"Vị ấy, với giới uẩn cao quý
nầy, với sự hộ trì các căn cao quý nầy, với chánh niệm tự giác cao quý
nầy, với hạnh biết đủ cao quý nầy, lựa một chỗ thanh vắng, tịch mịch,
như rừng, gốc cây, khe núi, hang đá, bãi tha ma, lùm cây, ngoài trời,
đống rơm. Sau khi đi khất thực về và ăn xong, vị ấy ngồi kiết già,
lưng thẳng tại chỗ nói trên, và an trú chánh niệm trước mặt"... Với
tâm định tỉnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu
nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình thản như vậy, vị Tỳ Kheo dẫn tâm,
hướng tâm đến lậu tận trí. Vị ấy biết như thật :"Ðây là Khổ"; biết như
thật :"Ðây là nguyên nhân khổ"; biết như thật :"Ðây là sự diệt khổ";
biết như thật :"Ðây là con đường đưa đến diệt khổ", biết như thật :"Ðây là những lậu hoặc"; biết như thật :"Ðây là nguyên nhân của lậu
hoặc"; biết như thật :"Ðây là sự diệt trừ các lậu hoặc". Nhờ hiểu biết
như vậy, nhận thức như vậy, tâm của vị ấy thoát khỏi dục lậu, thoát
khỏi hữu lậu, thoát khỏi vô minh lậu. Ðối với tự thân đã giải thoát
như vậy, khởi lên sự hiểu biết :"Ta đã giải thoát". Vị ấy biết :"Sanh
đã tận, phạm hạnh đã thành, những việc cần làm đã làm; sau đời hiện
tại, không có đời sống nào khác nữa" (Trường Bộ I.
82-83).
Ðọc hai đoạn trên, chúng ta thấy
từ Giới luật đầy đủ mới tu Thiền Ðịnh, từ Thiền Ðịnh đầy đủ mới phát Trí
huệ sáng suốt thấy đúng như thật cội nguồn sanh tử và xuất ly sanh
tử.
Thiền Tông và Thiền Nguyên Thủy
đều gặp nhau ở chỗ khai thác Trí Vô Sư. Giáo lý nhà Phật chia hai thứ
trí : Trí Hữu Sư và Trí Vô Sư. Trí Hữu Sư do học hỏi mà được, là sản phẩm
của người khác truyền sang. Trí Vô Sư sẵn có nơi mình, chỉ khi nào mọi
tâm lự đình chỉ thì tự phát hiện. Nếu con người tự mãn với Trí Hữu Sư
mai kia chúng ta sẽ không thông minh bằng người máy. Vì khoa học ngày
nay đã bắt chước tế bào não con người, chế biến các vi điện tử cũng có
khả năng ghi nhớ những dữ kiện như não bộ con người. Nếu người ta phát
vào não bộ người máy thật nhiều dữ kiện, nó sẽ biết nhiều, nhớ nhiều hơn
chúng ta. Bao nhiêu kiến thức chúng ta thu thập được đều thuộc bên ngoài
đưa vào, không phải là sự phát minh của Trí Vô Sư của chúng
ta.
Thiền Tông bắt buộc thiền giả
phải phát minh Trí Vô Sư, mọi kiến thức tiếp thu được bên ngoài đều
thuộc vô thường, thuộc người khác, không phải chính mình. Qua câu chuyện
đối đáp của hai Thiền Sư Nham Ðầu Toàn Khoát (826-887) và Tuyết Phong
Nghĩa Tồn (822-908) thấy rõ điều này.
- Tuyết Phong nói :"Tôi thật
còn chưa ổn".
- Nham Ðầu bảo :"Nếu ông thật
như thế cứ chỗ thấy của ông mỗi mỗi thông qua, chỗ phải tôi sẽ chứng
minh cho ông, chỗ không phải tôi sẽ vì ông đuổi dẹp".
- Tuyết Phong :"Khi tôi mới
đến Diêm Quan thấy thượng đường nói nghĩa sắc không liền được chỗ
vào".
- Nham Ðầu :"Từ đây đến ba
mươi năm rất kỵ không nên nói đến".
- Tuyết Phong nói :"Tôi thấy bài
kệ của Ðộng Sơn qua sông : Thiết kỵ tùng tha mích, điều điều dữ ngã sơ,
cừ kim chánh thị ngã, ngã kim bất thị cừ.
( Rất kỵ tìm nơi khác, xa
xôi bỏ lảng ta, va nay chính là ta, ta nay chẳng phải va )".
- Nham Ðầu bảo :"Nếu thế ấy, tự
cứu cũng chưa tột".
- Tuyết Phong nói :"Sau tôi hỏi Ðức
Sơn : Việc trong tông thừa từ trước con có phần chăng ? Ðức Sơn đánh một gậy hỏi :
Nói cái gì ? Tôi khi đó giống như thùng lủng đáy !"
- Nham Ðầu nạt :"Ông chẳng nghe
nói : Từ cửa vào chẳng phải của báu trong nhà ?"
- Tuyết Phong hỏi :"Về sau làm thế
nào mới phải ?"
- Nham Ðầu bảo :"Về sau, nếu muốn
xiển dương Ðại Giáo, mỗi mỗi từ trong hông ngực mình lưu xuất, sau nầy
cùng ta che trời che đất đi !"
Tuyết Phong nhơn câu ấy đại ngộ
liền đảnh lễ, đứng dậy kêu luôn :"Sư huynh ! Sư huynh ! Ngày nay mới thành đạo ở
Ngao Sơn". (Trung Hoa Chư Thiền Ðức II. 203)
Thiền Nguyên Thủy cũng do mọi
tâm niệm đều lặng sạch mới phát sanh trí tuệ. Trí tuệ này do định phát
sanh nên thuộc Trí Vô Sư. Chúng ta nghe một đoạn Phật kể lại sự tu chứng
của Ngài :"Xả lạc xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, chứng và trú
thiền thứ tư, không khổ không lạc, xả niệm thanh tịnh ... với tâm định
tĩnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ xử
dụng, vững chắc, bình tĩnh như vậy, Ta dẫn tâm, hướng tâm đến Túc Mạng
Minh. Ta nhớ đến các đời sống quá khứ, như một đời, hai đời ..." (Trung
Bộ I. 247).
Sau khi được xả niệm thanh tịnh,
hướng tâm về quá khứ thì thấy rõ nhiều đời của quá khứ ... Trí tuệ thấy
rõ này không phải do suy xét mà được. Chỉ nhờ xả niệm thanh tịnh, nên
thuộc Trí vô Sư.
C. Gặp Nhau Trên Lộ
Trình Tu Tập
Thiền Tông nghiên cứu công án
hay đề khởi thoại đầu cốt phải đến chỗ niêm mật, cho đến cô đọng thành
một khối gọi là nghi tình. Khi nghi tình tan vỡ là thành tựu đáp án,
cũng có nghĩa là ngộ đạo. Nếu dùng "Thấy vọng không theo" (phản quan tự
kỷ) cũng phải hằng tỉnh hằng giác cho đến khi nào vọng niệm lặng hết thì
kiến tánh ngộ đạo. Thiền sư Triệu Châu Tùng Thẩm (778-897) nói :"Một tâm
chẳng sanh muôn pháp không lỗi. Ông cứ nghiên cứu lý này, ngồi quán sát
hai ba mươi năm, nếu chẳng hội, chặt đầu lão tăng đi. Nhọc nhằn nắm bắt
mộng huyễn không hoa, tâm nếu chẳng khác thì muôn pháp nhất như". (Trung
Hoa Chư Thiền Ðức I. 397)
Thiền Nguyên Thủy quán Tứ Niệm
Xứ phải chuyên tâm cột niệm trong bốn Pháp sẽ được kết quả. Chúng ta
nghe Phật dạy trong bài kinh Tứ Niệm Xứ :
"Nầy các Tỳ Kheo, đây là con
đường độc nhất, đưa đến thanh tịnh cho chúng sanh, vượt khỏi sầu não,
diệt trừ khổ ưu, thành tựu chánh trí, chứng ngộ Niết Bàn. Ðó là Bốn
Niệm Xứ".
"Thế nào là bốn ? Nầy các Tỳ
Kheo, ở đây vị Tỳ Kheo sống quán thân trên thân, tinh cần, tỉnh giác,
chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời; sống quán thọ trên các thọ, tinh
cần tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời; sống quán tâm trên
tâm, tinh cần tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời; sống
quán pháp trên các pháp, tinh cần tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự
tham ưu ở đời". (Trung Bộ I. 56 -57).
Cũng kinh Tứ Niệm Xứ Phật nói
kết quả của Tỳ Kheo nào tinh cần như sau :
"Nầy các Tỳ Kheo, vị nào tu
tập Bốn Niệm Xứ này như vậy trong bảy năm, vị ấy có thể chứng một
trong hai quả sau đây : Một là chứng chánh trí ngay trong hiện tại, hay
nếu còn hữu dư y, chứng quả Bất Hoàn.
Nầy các Tỳ Kheo không cần gì
bảy năm, một vị Tỳ Kheo tu Bốn Niệm Xứ nầy như vậy trong sáu năm,
trong năm năm, trong bốn năm, trong ba năm, trong hai năm, trong một
năm, vị ấy có thể chứng một trong hai quả sau đây : Một là chứng chánh
trí ngay trong hiện tại, hay nếu còn hữu dư y, chứng quả Bất
Hoàn.
Nầy các Tỳ Kheo không cần gì
một năm, một vị nào tu tập Bốn Niệm Xứ nầy trong bảy tháng, vị ấy có
thể chứng một trong hai quả sau đây : Một là chứng chánh trí ngay trong
hiện tại, hay nếu còn hữu dư y, chứng quả Bất Hoàn.
Nầy các Tỳ Kheo, đây là con
đường độc nhất, đưa đến thanh tịnh cho chúng sanh, vượt khỏi sầu não,
diệt trừ khổ ưu, thành tựu chánh trí, chứng ngộ Niết Bàn. Ðó là Bốn
Niệm Xứ". (Trung Bộ I. 62A)
Tuy phương pháp ứng dụng tu có
khác, song đều phải nhiệt tâm tinh cần, kết quả sẽ đến không nghi. Thiền
Tông nhìn thẳng tâm niệm mình, Thiền Nguyên Thủy tựa vào Tứ Niệm Xứ,
dụng công tu cũng phải thiết tha thành khẩn như nhau, kết quả tâm niệm
lặng hết sẽ ngộ đạo hay chứng Niết Bàn.
D. Thiền Tông
Gặp Giáo Lý Nguyên Thủy
Thiền Tông tu bằng cách xoay sáu
căn trở về tự tánh của nó (Hồi quang phản chiếu). Bằng chứng khi Lục Tổ
Huệ Năng (638-713 T.L) nghe Ngũ Tổ giảng kinh Kim Cang, đến câu :"Bất
ưng trụ sắc sanh tâm, bất ưng trụ thanh, hương, vị, xúc, pháp sanh tâm,
ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm". Chẳng nên dính sắc sanh tâm, chẳng nên
dính thanh, hương, vị, xúc, pháp sanh tâm, nên không chỗ dính mà sanh
tâm kia : Tâm Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Lục Tổ phát ngộ la lên :"Ðâu ngờ tánh mình xưa nay thanh tịnh ! Ðâu ngờ tánh mình vốn tự đầy
đủ ...". (Kinh Pháp Bảo Ðàn, Phẩm Hành Do). Sáu căn không dính mắc với
sáu trần là nguyên nhân đưa đến giác ngộ. Chính Trúc Lâm Đầu Ðà (Trần
Nhân Tông) định nghĩa Thiền Tông một cách đơn giản và cụ thể. Trong bài
kệ Hán văn kết thúc bài phú "Cư Trần Lạc Ðạo" câu chót "Ðối cảnh vô tâm
mạc vấn thiền" . Ðối cảnh không tâm là sáu căn tiếp đối sáu trần mà
không dấy niệm chạy theo, Thiền là ngay nơi đó.
Các kinh Nguyên Thủy, Phật
thường dạy sáu căn tiếp xúc sáu trần phải biết như thật tập khởi, sự
chấm dứt, vị ngọt, sự nguy hại và sự xuất ly khỏi sáu căn. Nếu biết như
thật rồi thì đâu còn chạy theo sáu trần, cũng là nguyên nhân chứng
A-La-Hán hay Vô-Thượng Chánh-Ðẳng Chánh-Giác. Như bài kinh Phật dạy sau
đây :
"Nầy các Tỳ Kheo , có sáu
căn này. Thế nào là sáu ? Nhãn căn, nhĩ căn, tỷ căn, thiệt căn,
thân căn , ý căn".
"Cho đến khi nào, nầy các Tỳ
kheo, Ta chưa như thật chứng tri sự tập khởi, sự chấm dứt, vị ngọt, sự
nguy hại và sự xuất ly khỏi sáu căn nầy, cho đến khi ấy, nầy các Tỳ
Kheo. Ta không có biết rõ về sự chứng ngộ Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh
Giác, đối các thế giới, Ma giới, Phạm Thiên giới, với các chúng Sa
môn, Bà La Môn, Chư Thiên và loài người. Cho đến khi nào, nầy các Tỳ
Kheo, Ta như thật chứng tri sự tập khởi, sự chấm dứt, vị ngọt, sự nguy
hại và sự xuất ly khỏi sáu căn nầy, cho đến khi ấy nầy các Tỳ Kheo. Ta
mới nhận biết rõ ý nghĩa về sự chứng ngộ Vô-Thượng Chánh-Ðẳng
Chánh-Giác, đối với các thế giới, như Thiên giới, Ma giới, Phạm Thiên
giới, với các chúng Sa môn, Bà La Môn, Chư Thiên và loài người."
(Tương Ưng Bộ V. 218-219)
Thiền Tông phản quan nội tâm,
không theo vọng tưởng, không có pháp môn để tu. Mã Tổ Ðạo Nhất (709-788)
dạy chúng :"Các ông mỗi người tin tâm mình là Phật, tâm nầy tức là tâm
Phật. Tổ Ðạt Ma từ Nam Ấn sang Trung Hoa truyền pháp thượng thừa nhất
tâm, khiến các ông khai ngộ. Tổ lại dẫn kinh Lăng Già để ấn tâm địa
chúng sanh. Sợ e các ngươi điên đảo không tự tin pháp tâm nầy mỗi người
tự có, nên kinh Lăng Già nói "Phật nói tâm là chủ, cửa không là cửa
pháp'' - Phật ngữ : tâm vi tông, vô môn vi pháp môn" (Trung Hoa Chư Thiền
Ðức I. 90). Thiền Sư Vô Nghiệp (760-821) đáp những câu hỏi của các Thiền
khách, sư thường sử dụng câu :"Chớ vọng tưởng". Sư dạy chúng : "Chư Phật
chưa từng ra đời, cũng không có một pháp dạy người, chỉ tùy bịnh cho
thuốc nên có 12 phần giáo, như lấy chuối ngọt nhét thuốc đắng vào, cốt
gột sạch gốc nghiệp cho các ông (Trung Hoa Chư Thiền Ðức I. 237)". Ðức
Sơn Tuyên Giám (780-865) nói :"Tông ta không ngữ cú, thật không một pháp
cho người".
Giáo lý Nguyên Thủy cũng có bài
kinh "Có pháp môn nào ?" tương tự Thiền Tông :
"Có pháp môn nào, do pháp môn
ấy, Tỳ Kheo, ngoài lòng tin, ngoài ưa thích, ngoài lắng nghe, ngoài
suy tư về phương pháp (akàraparitakka), ngoài kham nhẫn, thích thú
biện luận (ditthini khànakhanti), có thể xác chứng chánh trí. Vị ấy
biết rõ :"Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành. Những gì nên làm đã làm.
Không còn trở lui trạng thái nầy nữa !"
-"Bạch Thế Tôn, đối với chúng
con, pháp lấy Thế Tôn làm căn bản ... "
"Có một pháp môn, nầy các Tỳ
Kheo, do pháp môn ấy, Tỳ Kheo ngoài lòng tin, ngoài ưa thích, ngoài
lắng nghe, ngoài kham nhẫn, thích thú biện luận, có thể xác chứng
chánh trí. Vị ấy biết rõ : "Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành. Những gì nên làm đã làm.
Không còn trở lui trạng thái nầy nữa !"
-"Pháp môn ấy là gì, do pháp
môn ấy ... không còn trở lui trạng thái nầy nữa".
"Ở đây nầy các Tỳ Kheo. Tỳ
Kheo mắt thấy sắc, biết rõ rằng :"Nội tâm ta không có tham, sân si".
Nội tâm có tham, sân, si biết rõ rằng :"Nội tâm ta có tham, sân, si";
hoặc biết rõ nội tâm không có tham, sân, si :"Nội tâm ta không có
tham, sân, si". Nầy các Tỳ kheo khi mắt thấy sắc, hoặc nội tâm có tham
sân si biết rõ :"Nội tâm ta có tham sân si"; nội tâm không có tham sân
si biết rõ :"Nội tâm ta không có tham, sân, si". Nầy các Tỳ Kheo biết
rõ chúng có mặt hay không có mặt trong tâm vị ấy, có phải chúng là
những pháp do lòng tin được hiểu biết, hay do ưa thích được hiểu biết,
hay do lắng nghe được hiểu biết, hay do suy tư về phương pháp được
hiểu biết, hay do kham nhẫn, thích thú về biện luận được hiểu biết?"
-"Thưa không, bạch Thế Tôn".
"Có phải pháp nầy, do thấy
chúng với trí tuệ, nên được hiểu biết ?"
- "Thưa phải, Bạch Thế
Tôn.
"Ðây là pháp môn, nầy các Tỳ
Kheo, do pháp môn nầy, ngoài lòng tin, ngoài ưa thích, ngoài lắng
nghe, ngoài suy tư về phương pháp, ngoài kham nhẫn, thích thú biện
luận, có thể xác chứng với chánh trí. Vị ấy biết rõ :"Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành. Những gì nên làm đã làm.
Không còn trở lui trạng thái nầy nữa"... (Tương ưng bộ IV.
146-147)
Qua bài kinh nầy, chúng ta thấy
cụ thể có lối tu không dựa vào pháp môn. Chỉ phản quan lại tâm mình thấy
đúng như thật, có tham sân si hay không tham sân si. Chủ yếu là đến
không tham sân si. Tham sân si, Thiền Tông gọi là vọng tưởng, không tham
sân si là hết vọng tưởng. Thế là hai bên gặp nhau ở chỗ "Phản quan tự
kỷ" và kết cuộc đều đến chỗ giải thoát sanh tử. Chính quán sát nội tâm
là trí tuệ, nhờ trí tuệ không bị phiền não dẫn, từ từ chúng lặng
sạch.
E.- Chỗ Cứu Cánh
Gặp Nhau
Thiền Nguyên Thủy tu qua tứ-Thiền đến giác ngộ tứ-đế là giải thoát sanh tử. Thiền Tông khi ngộ được
Phật Tánh sạch hết mọi tập khí vọng tưởng cũng giải thoát sanh tử. Ðây
là chỗ cứu cánh hai bên gặp nhau. Chỉ khác nhau chỗ, Thiền Tông nói Phật
Tánh, Pháp Thân, Bản Lai Diện Mục... còn Thiền Nguyên Thủy chỉ nói giải
thoát không còn tái sanh đời sau. Tuy nhiên vẫn có bài kinh trong hệ
Nguyên Thủy nói rõ có cái để giải thoát (Duk. 11.6)
(It.37) :
"Ðiều nầy đã được Thế Tôn nói
đến, đã được bậc A-La-Hán nói đến, và tôi đã được nghe.
"Nầy các Tỳ Kheo, có cái không
sanh, không hiện hữu, không tác thành, không làm ra (asankhatam). Nầy
các Tỳ Kheo, nếu không có cái không sanh, không hiện hữu, không tác
thành, không làm ra, thời ở đây không thể trình bày được sự xuất ly
khỏi sanh, khỏi hiện hữu, khỏi tác thành, khỏi làm ra. Ðó vì, nầy các
Tỳ Kheo, có cái không sanh, không hiện hữu, không tác thành, không làm
ra, nên có thể trình bày được sự xuất ly khỏi sanh, khỏi hiện hữu,
khỏi tác thành, khỏi làm ra. Thế Tôn đã nói ý nghĩa nầy. Ở đây điều
nầy được nói đến" (Tiểu Bộ I. 442 - 443).
Bao nhiêu cũng đủ minh chứng hệ
Nguyên Thủy có cái để giải thoát khỏi sanh tử, mặc dù không nói tên ra. Như vậy Thiền Tông và Thiền Nguyên Thủy chỗ cứu cánh là gặp nhau; Chỉ
có một điều, Thiền Nguyên Thủy đến chỗ giải thoát rồi thì nhập Niết Bàn
vĩnh viễn không còn tái sanh đời sau; còn Thiền Tông đến chỗ giải thoát
thì không chịu an trụ nơi đó mà vẫn lưu nguyện lăn lộn độ sanh ở đời sau.
Như vậy, từ mục đích ban đầu
Thiền Tông và Thiền Nguyên Thủy đã gặp nhau, cho đến cứu cánh hai bên
cũng gặp nhau. Chỉ có phương tiện hai bên có khác nhau mà thôi.
[
BACK ]